— A story by To Hoai —
Chapter 1. An independent life since childhood – a prank that costs dearly
Chương 1: Tôi sống độc lập từ thủa bé – Một sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời
I have lived an independent life since early childhood. Such is the rule among us crickets. My mother used to tell her children, “It’s good for you to learn to fly with your own wings. Children who are a burden to their parents develop parasitic habits and will grow up into never-do-wells.” Following her principles, she would arrange for her children to live on their own.
Tôi sống độc lập từ thủa bé. Ấy là tục lệ lâu đời trong họ nhà dế chúng tôi. Vả lại, mẹ thường bảo chúng tôi rằng: “Phải như thế để các con biết kiếm ăn một mình cho quen đi. Con cái mà cứ nhong nhong ăn bám vào bố mẹ thì chỉ sinh ra tính ỷ lại, xấu lắm, rồi ra đời không làm nên trò trống gì đâu”. Bởi thế, lứa sinh nào cũng vậy, đẻ xong là bố mẹ thu xếp cho con cái ra ở riêng.
My two brothers and I myself, for instance, lived with her for only two days. On the third evening, my mother took each of us to a hole she had dug in the corner of a rice field.
Lứa sinh ấy, chúng tôi có cả thảy ba anh em. Ba anh em chúng tôi chỉ ở với mẹ ba hôm. Tới hôm thứ ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tểnh, khấp khởi, nửa lo nửa vui theo sau. Mẹ dẫn chúng tôi đi và mẹ đem đặt mỗi đứa vào một cái hang đất ở bờ ruộng phía bên kia, chỗ trông ra đầm nước mà không biết mẹ đã chịu khó đào bới, be đắp tinh tươm thành hang, thành nhà cho chúng tôi từ bao giờ.
As the youngest of the brood, I was provided with a small supply of food. But that was all: my mother didn’t turn back once.
Tôi là em út, bé nhất nên được mẹ tôi sau khi dắt vào hang, lại bỏ theo một ít ngọn cỏ non trước cửa, để tôi nếu có bỡ ngỡ, thì đã có ít thức ăn sẵn trong vài ngày. Rồi mẹ tôi trở về.
Far from bewailing the situation, I rather enjoyed it. After thoroughly exploring my new premises, I stood at the door, looking at the stars twinkling among the top blades of tall grass. Feeling elated, I rubbed my wings and uttered a few enthusiastic loud cries.
Tôi cũng không buồn. Trái lại, còn thấy làm khoan khoái vì được ở một mình nơi thoáng đãng, mát mẻ. Tôi vừa thầm cảm ơn mẹ, vừa sạo sục thăm tất cả các hang mẹ đưa đến ở. Khi đã xem xét cẩn thận rồi, tôi ra đứng ở ngoài cửa và ngửng mặt lên trời. Qua những ngọn cỏ ấu nhọn và sắc, tôi thấy màu trời trong xanh. Tôi dọn giọng, vỗ đôi cánh nhỏ tới nách, rồi cao hứng gáy lên mấy tiếng rõ to.
From that day on, I started a life on my own. My personal happiness would depend on whether I would be wise or stupid. But I didn’t think of that at the time. I merely enjoyed my independence.
Từ đây, tôi bắt đầu vào cuộc đời của tôi. Cho dù tôi sẽ sung sướng hay khổ sở, cái đó tùy ở tính tình tôi khôn ngoan hay đần độn. Song tôi chưa cần biết đến thế, tính đến thế. Mà hãy lấy sự được ung dung độc lập một mình là điều thích lắm rồi….
All-day long, I worked in my hole, enlarging an embellishing it into a nice bedroom. Then I dug two new galleries leading to back doors for emergencies. When dusk fell, I would stop for a rest. Together with the whole neighbourhood, I would start a joyful concert in honour of the setting sun.
Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn, làm thành cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng biết lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được. Chập tối, tôi tạm nghỉ tay và ra đứng ngoài cửa, họp cùng anh chị em hàng xóm quanh bờ ruộng, vừa gảy đàn vừa hát một bài hát hoàng hôn chào tạm biệt ông mặt trời.
During the whole night, we would hold riotous dancing and singing parties, stopping from time to time to drink dew drops or nibble at juicy blades of young grass. Only when the austere-looking sun appeared again in the East, did we part to go back home. Such was the joyful routine of my life. A quite pleasant one, wasn’t it?
Khi đêm đã xuống hẳn, cả xóm chúng tôi, các bô lão dế lụ khụ già cốc đế cũng bỗng nhiên vui tính, ai nấy ra khỏi hang, đến tụ hội thật đông tận giữa bãi trong đêm tối mát lạnh, cùng uống sương đọng, ăn cỏ ướt và những gã tài hoa thì gảy đàn thổi sáo, cùng nhau ca hát, nhảy múa linh đình đến tận sáng bạch, lúc ông mặt trời quen thuộc lại nghiêm trang ló lên đằng đông mới tan cuộc ai về nhà nấy. Ngày nào, đêm nào, sớm và chiều nào cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi. Kể đời mà được như thế cũng khá an nhàn, nhưng mới đầu còn thấy hay hay, về sau cũng nhàm dần.
As I lived soberly and worked moderately, I grew up rapidly and in no time became a healthy and strong adolescent. My wings shone with a dark lustre. The spikes on my legs were spear-pointed. To try their effectiveness, I would sometimes raise my legs and give powerful kicks at the grass whose blades would then fall down as at the blow of a cutting blade. My wings extended to the tip of my tail. When flapped, they gave out a powerful noise. My head grew bigger and bigger and pugnacious looking bumps started bulging out on my forehead. My two white mandibles were always moving crosswise, like the blades of some mowing machine. I was particularly proud of my two long and martial-looking antennae which I kept caressing with my forelegs. My whole body was of a glossy brown.
Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Ðôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ. Những ngọn cỏ gãy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua. Ðôi cánh tôi, trước kia ngắn hủn hoẳn bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vũ lên, đã nghe tiếng phành phạch giòn giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Tôi lấy làm hãnh diện với bà con vì cặp râu ấy lắm. Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.
I adopted a stately gait. When I walked, I solemnly swayed on my legs, my two antennae shaking in a bellicose manner. I took on daring airs and would pick a quarrel with every one of my neighbours. When I started shouting, they would remain silent, probably not so much because they were afraid to answer back but merely because of a peaceable disposition. But that made me feel too big for my breeches. Young people often are like that: bragging is for them a sign of talent! When I had played the bully with some timid grasshoppers or a water spider who had stayed from his native pond, I believed myself a real hero.
Tôi đi đứng oai vệ. Mỗi bước đi, tôi làm điệu dún dẩy cá khoeo chân, rung lên rung xuống hai chiếc râu. Cho ra kiểu cách con nhà võ. Tôi tợn lắm. Dám cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm. Khi tôi to tiếng thì ai cũng nhịn, không ai đáp lại. Bởi vì quanh quẩn ai cũng quen mình cả. Không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he. ấy vậy, tôi cho tôi giỏi. Những gã xốc nổi thường làm cử chỉ ngông cuồng là tài cao. Tôi quát mấy chị Cào Cào ngụ ngoài đầu bờ khiến mỗi lần thấy tôi đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên. Tôi càng tưởng tôi là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi.
Alas, I didn’t know that one is likely to pay dearly for foolish bluster. Unconsciously I was doing myself a bad disservice. Later, I would many times narrowly escape death. My heart would then be filled with remorse. But remorse was not of much help in setting things right again.
Chao ôi, có biết đâu rằng: hung hăng hống hách láo chỉ tôi đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu dại của mình thôi. Tôi đã phải trải cảnh như thế. Thoát nạn rồi mà còn ân hận quá, ân hận mãi. Thế mới biết, nếu đã trót không suy tính, lỡ xảy ra những việc dại dột, dù về sau có hối cũng không thể làm lại được.
This was how the first mishap came about
Câu chuyện ân hận đầu tiên mà tôi ghi nhớ suốt đời
Near my place lived a mole-cricket, about my age. He belonged to the weaker kind of cricket, so I rather looked down on him. And he was truly afraid of me!
Bên hàng xóm tôi có cái hang của Dế Choắt. Dế Choắt là tên tôi đặt cho nó một cách chế diễu và trịch thượng thế. Choắt nọ cũng chắc trạc tuổi tôi. Nhưng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường và gã cũng sợ tôi lắm.
Thin and pale like an opium-addict, he had ridiculously short wings which made him look as though a waistcoat was his only clothing. His hind legs were thick and utterly inelegant. In addition to all that, he had ludicrous stumps in place of antennae, and the dazed look of a hopeless country bumpkin! And he was not the kind of fellow to do things seriously: his hole was shallow and had no galleries like mine.
Cái chàng Dế Choắt, người gày gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Ðã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến giữa lưng, hở cả hai mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê. Ðôi càng bè bè, nặng nề trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt có một mẩu, mà mặt mũi lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Ðã vậy tính nết lại ăn sổi, ở thì (thật chỉ vì ốm đau luôn luôn không làm được) một cái hang ở cũng chỉ bới nông sát mặt đất, không biết đào sâu rồi khoét ra nhiều ngách như hang tôi.
One day I paid him a visit. After having a look at his shabby home, I reproachfully told him, ” What a careless and slovenly way of living! What a home to live in! Suppose an enemy comes: you will have no way to escape! Look, every time you move in your hole, your back will show up through the ceiling. Any hawk could easily get you. My poor chap, you are no longer a child, yet you haven’t the wisdom of mature age!”
Một hôm tôi sang chơi, thấy trong nhà luộm thuộm, bề bộn, tôi bảo:
– Sao chú mày sinh sống cẩu thả quá như thế! Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng. Ngộ có kẻ nào đến phá thì thật chú chết ngay đuôi! Này thử xem: khi chú chui vào tổ lưng chú phải lồm cồm đụng sát lên tận mặt đất, làm cho ai trên về cỏ nhìn sang cũng biết chú đương đi đứng chỗ nào trong tổ. Phỏng thử có thằng chim Cắt nó nhòm thấy, nó tưởng mồi, nó mổ một phát, nhất định trúng giữa lưng chú, thì chú có mà đi đời! Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn.
Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng thôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy tôi có tính tự đắc, cứ miệng mình nói tai mình nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình không.
The mole-cricket answered in a sad voice, “Big Brother, I surely want to have wisdom, but I can’t. I work all night for a living and am too tired when daylight comes to do any more work and make this place safer and more comfortable. I have no time to sing like you! I know it is dangerous to live in such a shallow hole, but I have neither the strength nor the money to improve it. Wise Brother, the poor are always in such straits! But now, I think that… but, I dare not speak to you about it…”
Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu:
– Thưa anh, em cũng muốn khôn, nhưng không không được, đụng đến việc là em thở rồi, không còn hơi sức đâu mà đào bới nữa. Lắm khi em cũng nghĩ nỗi nhà cửa thế này là nguy hiểm, nhưng em nghèo sức quá, em đã lo ròng rã hàng mấy tháng nay cũng không biết làm thế nào. Hay bây giờ em định thế này… Song anh có cho phép nói em mới dám nói…
I said in a condescending way, “Just tell me what you think. I permit you to do so.” The mole-cricket timidly said, ” Thank you, Big Brother. As you have deigned to take pity on me, I would ask for permission to dig a gallery linking my hole to yours. In case of danger, I can thus escape to your place.” Baring my teeth, I snarled, ” What! A gallery linking my place to yours? How could I stand it? You smell as badly as an owl. Now, stop it! It’s no use whimpering. It serves you right for being such a lazy fellow.”
Rồi dế choắt loanh quanh, băn khoăn. Tôi phải bảo:
– Ðược, chú mình cứ nói thẳng thừng ra nào:
Dế choắt nhìn tôi mà rằng:
– Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…
Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi, với điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng:
– Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta làm sao chịu được. Thôi im cái điệu hát mưa dầm sụt sùi ấy đi. Ðào tổ nông thì cho chết!
I went back to my place and paid no more attention to my unfortunate neighbour.
Tôi về không một chút bận tâm.
One afternoon, I stood at my doorstep. It had rained the day before, so the neighbouring ponds and lakes were overflowing.
Một buổi chiều, tôi ra đứng cửa hang như mọi khi, xem hoàng hôn xuống. Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng mênh mông.
Egrets, cranes, cormorants… were coming to search for food. All day long, they kept quarrelling, noisily disputing every tiny shrimp. Egrets, being the weakest, could never get enough food to eat and so grew horribly thin. Such is the fate of the weak!
Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấo nập xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận đâu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày họ cãi cọ om bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép, có những anh cò vêu vao ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều tỏa xuống ánh nước cửa hang mà suy nghĩ việc đời như thế.
While philosophising over the facts of life, I suddenly noticed a cormorant who had just alighted a few steps from my place.
Bỗng thấy chị Cốc từ mặt nước bay lên, đến đậu gần hang tôi, cách có mấy bước. Chừng rớ được món nào, vừa chén xong, chị tìm đến đứng chỗ mát rỉa lông, rỉa cánh và chùi mép.
A wicked idea came to my mind. I called my neighbour the mole-cricket.
When I heard his answer, I asked him, “Would you like to have some fun?”
Tính tôi hay nghịch ranh. Chẳng bận đến tôi, tôi cũng nghĩ mưu trêu chị Cốc. Tôi cất tiếng gọi Dế Choắt. Nghe tiếng thưa, tôi hỏi:
– Chú mình có muốn cùng tớ đùa vui không?
“How so?”
– Ðùa trò gì? Em đương lên cơn hen đây. Hừ hừ…
“Just playing a joke on somebody.”
– Ðùa chơi một tí.
– Hừ hừ… cái gì thế?
“On whom?”
“On yonder cormorant.”
“What, that big, fat female standing a few steps from our doors?”
– Con mụ Cốc kia kìa.
Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi:
– Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta ấy hả?
“Precisely.”
– ừ.
“My God, no! I can’t afford that. And I would advise you not to either.”
– Thôi thôi… hừ hừ… Em xin vái cả sáu tay. Anh đừng trêu vào… Anh phải sợ…
“Me! Not to? What are you talking about? I fear nobody, Mister Coward.”
Tôi quắc mắt:
– Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa?
“Then, do it alone, please. I humbly confess that I’m afraid.”
– Thưa anh, thế thì… hừ hừ…em xin sợ. Mời anh cứ đùa một mình thôi.
“You poltroon! Look, I’m going to play a good joke on the cormorant.”
Tôi lại mắng Dế Choắt và bảo:
– Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này.
I waited for a favourable moment then started singing.
“Bong, bong, bong!
The egret, the crane, the pelican!
All three are fat enough, which one should I pluck, Sir?
– Pluck the cormorant for me, my boy!
I will have it cooked, broiled, fried, and I’ll eat it!”
Tôi rình đến lúc chị Cốc rỉa cánh quay đầu lại phía cửa tôi tôi, tôi cất giọng véo von:
Cái Cò, cái Vạc, cái Nông
Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào?
Vặt lông cái Cốc cho tao
Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.
This gave the cormorant a start! Opening her eyes wide and stretching her wings, she strutted toward where the song came from and asked in an angry voice, “Who just said that insolent thing about me? Who?”
Chị Cốc nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế ào, giật nẩy hai đầu cánh, muốn bay.
Ðến khi định thần lại, chị mới trợn tròn mắt, giương cánh lên như sắp sửa đánh nhau. Chị lò dò về phía cửa hang tôi hỏi:
– Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế? Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế?
I quickly backed down to the bottom of my hole, saying to myself, “You’re angry, eh? But you won’t get me, even if you break your silly head knocking it on my door.”
Tôi chui tọt ngay vào hang, lên giường nằm khểnh, bắt chân chữ ngũ. Bụng nghĩ thú vị: “Mày tức thì mày cứ tức, mày ghè vỡ đầu mày ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu!”
The cormorant didn’t get me, as a matter of fact. But she caught sight of the mole-cricket in his shallow hole. I heard her angry shout, “Mole-cricket! What did you just say about me?”
“I said nothing, Big Sister.”
“How dare you deny it? How dare you?”
Một tai hoạ đến mà đứa ích kỷ thì không thể biết trước được. Ðó là, không trông thấy tôi, nhưng chị Cốc đã trông thấy Dế Choắt đang loay hoay trong cửa hang, chị Cốc liền quát lớn:
– Mày nói gì?
– Lạy chị, em nói gì đâu?
Rồi Dế Choắt lủi vào.
– Chối hả? Chối này! Chối này.
A heavy stroke of the cormorant’s bill accompanied each of her rebukes. I heard the mole-cricket’s painful whine. Having relieved herself of her anger, the cormorant flew away to look for fish. Carefully, I crept up.
Mỗi câu “chối này” chị Cốc lại giáng một mỏ xuống. Mỏ Cốc như cái dùi sắt, chọc xuyên cả đất. Rúc trong hang mà bị trúng hai mỏ, Choắt quẹo xương sống lăn ra kêu váng. Núp tận đáy đất mà tôi cũng khiếp, nằm im thít. Nhưng đã hả cơn tức, chị Cốc đứng rỉa lông cánh một lát nữa rồi lại bay là xuống đầm nước, không chút để ý đến cảnh khổ đau vừa gây ra.
When he saw me, my poor neighbour cried bitterly.
“What happened?” I unconsciously asked.
Biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên.
Trông thấy tôi, Dế Choắt khóc thảm thiết. Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
– Sao? Sao?
But mole-cricket could not stand on his legs. He was lying on the ground, half-dead. Tears came to my eyes. I spoke softly, “How could I know things would happen this way? Brother, my heart is filled with bitter remorse. My silly bragging is the cause of this tragedy.”
Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:
– Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm! Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?
Mole-cricket was in agony, but he found the strength to give me some advice, “Being in poor health,” he murmured “I won’t live long anyway. So, I am not really sad about having to die now. But before leaving this world, I would like to advise you not to be such a foolish braggart. Before you do anything, pray, think the matter over carefully. Less danger will befall you.”
Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu thế này:
– Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.
Mole-cricket breathed his last. My heart was filled with pity and remorse. Had it not been for the silly joke I played on the cormorant, he would not have died. And I myself had had a close shave, too. Far from being the smart fellow, I thought I was, I was a confounded fool. My heart swelled with remorse.
Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội mình. Giá tôi không trêu chị Cốc thì đâu đến nỗi Choắt việc gì. Cả tôi nữa, nếu không nhanh chân chạy vào hang thì tôi cũng chết toi rồi.
I buried Mole-cricket in a grassy piece of land. I heaped earth on his grave so that ants would not be able to disturb his rest. I stood for a long moment before his tomb, my eyes filled with tears. I was so sad and felt so much pity for my friend.
Tôi đem xác Dế Choắt đến chôn vào một vùng cỏ bùm tum. Tôi đắp thành nấm mộ to. Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ về bài học đường đời đầu tiên.
___________Hết chương 1____________