— a story by Herman and Roma Rosenblat —-
(As told to Barbara De Angelis, Ph.D.)
It is cold, so bitter cold, on this dark, winter day in 1942. But it is no different from any other day in this Nazi concentration camp.
Đó là một ngày mùa đông u ám rét mướt năm 1942. Nhưng ở trong trại tập trung của Đức Quốc xã thì ngày nào cũng như ngày nào.
I stand shivering in my thin rags, still in disbelief that this nightmare is happening.
Tôi đứng run lẩy bẩy trong bộ quần áo mỏng rách bươm, vẫn không thể nào tin nổi cơn ác mộng ấy lại đang xảy ra.
I am just a young boy.
Tôi chỉ là một cậu bé.
I should be playing with friends; I should be going to school; I should be looking forward to a future, growing up and marry, and having a family of my own. But those dreams are for the living, and I am no longer one of them.
Lẽ ra tôi đang chơi đùa cùng các bạn, lẽ ra tôi đang đi học, lẽ ra tôi đang hướng đến tương lai, sẽ lớn lên rồi lập gia đình và có một mái ấm của riêng mình. Nhưng những ước mơ đó chỉ dành cho những người đang sống, còn tôi đã không còn là những người đang sống nữa rồi.
Instead, I am almost dead, surviving from day to day, from hour to hour, ever since I was taken from my home and brought here with tens of thousands of other Jews.
Thay vào đó, kể từ khi tôi bị đưa ra khỏi nhà và mang đến đây cùng với hàng chục ngàn người Do Thái khác, tôi gần như đã chết, chỉ là đang tồn tại từng ngày, từng giờ.
Will I still be alive tomorrow? Will I be taken to the gas chamber tonight?
Liệu ngày mai tôi có còn sống hay không? Liệu tôi có bị đưa đến phòng hơi ngạt vào đêm nay hay không?
Back and forth I walk next to the barbed wire fence, trying to keep my emaciated body warm.
Tôi đi tới đi lui ngay kế bên hàng rào kẽm gai, cố giữ cho cơ thể hốc hác của mình được ấm.
I am hungry. I am always hungry. Edible food seems like a dream.
Tôi đói. Tôi luôn luôn đói. Những thứ ăn được có vẻ chỉ xuất hiện trong mơ.
Each day, as more of us disappear, the happy past seems like a mere dream, and I sink deeper and deeper into despair.
Mỗi ngày, khi càng có nhiều người trong chúng tôi biến mất thì quá khứ hạnh phúc dường như cũng chỉ là một giấc mơ, và tôi ngày càng lún sâu vào nỗi tuyệt vọng.
Suddenly, I notice a young girl walking past on the other side of the barbed wire.
Bất chợt, tôi thấy một cô bé đ ingang qua ở phía bên kia của hàng rào kẽm gai.
She stops and looks at me with sad eyes, eyes that seem to say that she understands, that she, too, cannot fathom why I am here.
Cô ấy dừng lại và nhìn tôi với đôi mắt đượm buồn, đôi mắt như muốn nói rằng cô hiểu tôi, và rằng cô cũng chẳng thể lý giải nỗi tại sao tôi lại ở đây.
I want to look away, oddly ashamed for this stranger to see me like this, but I cannot tear my eyes from hers.
Tôi muốn quay đi chỗ khác, cảm thấy xấu hổ đến lạ kỳ khi cô gái kỳ lạ này lại nhìn tôi như thế, nhưng tôi lại không thể nào rời mắt khỏi cô.
Then she reaches into her pocket and pulls out a red apple. A beautiful, shiny red apple.
Rồi cô cho tay vào túi và lấy ra một trái táo đỏ. Một quả táo đỏ, căng mọng.
Oh, how long has it been since I have seen one! She looks cautiously to the left and to the right, and then with a smile of triumph, quickly throws the apple over the fence.
Ôi, đã bao lâu rồi tôi không trông thấy một quả táo như thế! Cô thận trọng nhìn bên trái rồi bên phải, sau đó với nụ cười hoan hỉ, cô nhanh chóng ném trái táo qua hàng rào kẽm gai.
I run to pick it up, holding it in my trembling, frozen fingers.
Tôi chạy tới nhặt trái táo lên, giữ chặt lấy nó trong những ngón tay tê cóng và run rẩy của mình.
In my world of death, this apple is an expression of life, of love. I glance up in time to see the girl disappearing into the distance.
Trong thế giới chết chóc của tôi, quả táo này tượng trưng cho cuộc sống, cho tình yêu. Tôi liếc nhìn lên, vừa kịp trông thấy cô gái mất hút phía đằng xa.
The next day, I cannot help myself – I am drawn at the same time to that spot near the fence.
Ngày hôm sau, tôi không thể kìm mình lại được – cũng vào giờ ấy, trong tôi có một sự thôi thúc phải đi đến chỗ hàng rào.
Am I crazy for hoping she will come again? Of course. But in here, I cling to any tiny scrap of hope.
Tôi điên hay sao mà lại mong cô ấy sẽ quay lại nhỉ? Phải rồi. Nhưng ở trong này thì tôi bám vào bất kỳ niềm hy vọng nào dù mong manh nhất.
She has given me hope and I must hold tightly to it.
Cô đã cho tôi hy vọng và tôi phải bám chặt lấy niềm hy vọng đó.
And again, she comes. And again, she brings me an apple, flinging it over the fence with that same sweet smile.
Và rồi cô lại đến. Cô lại mang cho tôi một quả táo và cũng ném nó qua hàng rào với nụ cười xinh xắn ấy.
This time I catch it and hold it up for her to see. Her eyes twinkle.
Lần này tôi bắt lấy nó và giơ lên cao để cô nhìn thấy. Đôi mắt cô long lanh.
Does she pity me? Perhaps. I do not care, though. I am just so happy to gaze at her.
Phải chăng cô thương hại tôi? Có thể lắm. Nhưng tôi không quan tâm. Tôi chỉ sung sướng nhìn đăm đăm vào cô.
And for the first time in so long, I feel my heart move with emotion.
Và từ lâu lắm rồi, lần đầu tiên trái tim tôi lại rộn lên với nhiều cảm xúc.
For seven months, we meet like this. Sometimes we exchange a few words. Sometimes, just an apple.
Chúng tôi gặp nhau như thế trong bảy tháng trời. Đôi khi chúng tôi nói với nhau vài lời. Đôi khi cô đến chỉ để đưa táo.
But she is feeding more than my belly, this angel from heaven. She is feeding my soul. And somehow, I know I am feeding hers as well.
Nhưng cô bé thiên thần này không chỉ làm tôi no bụng. Cô đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Và chẳng biết vì cớ gì, tôi biết rằng tôi cũng đang nuôi dưỡng tâm hồn cô.
One day, I heard frightening news: we are being shipped to another camp.
Một ngày nọ, tôi nghe được một tin kinh hoàng: chúng tôi sẽ bị chuyển tới một trại khác.
This could mean the end for me. And it definitely means the end for me and my friend.
Đây có thể là dấu chấm hết cho tôi. Và đây rõ rang là dấu chấm hết cho tôi và bạn tôi.
The next day when I greet her, my heart is breaking, and I can barely speak as I say what must be said: “Do not bring me an apple tomorrow,” I tell her.
Ngày hôm sau, khi gặp cô, trái tim tôi tan nát, tôi chỉ kịp nói những điều cần phải nói. Tôi bảo cô: “Ngày mai đừng mang táo đến cho mình!”
“I am being sent to another camp. We will never see each other again.”
“Mình sắp bị đưa tới một trại khác. Chúng ta sẽ không bao giờ còn được gặp lại nhau.”
Turning before I lose all control, I run away from the fence. I cannot bear to look back.
Tôi vội quay đi trước khi mất tự chủ và chạy xa khỏi hàng rào. Tôi không thể nào quay lại nhìn.
If I did, I know she would see my tears streaming down my face.
Nếu làm vậy, cô ấy sẽ nhìn thấy tôi với những giọt nước mắt lưng tròng.
Months pass and the nightmare continues.
Nhiều tháng trôi qua và cơn ác mộng vẫn cứ tiếp diễn.
But the memory of this girl sustains me through the terror, the pain, the hopelessness.
Nhưng ký ức về cô bạn gái đã giúp tôi vượt qua nỗi kinh hoàng, sự đau đớn cùng nỗi tuyệt vọng.
Over and over in my mind, I see her face, her kind eyes, I hear her gentle words, I taste those apples.
Trong tâm trí, tôi cứ liên tục nhìn thấy khuôn mặt cô, ánh mắt hiền từ của cô, tôi nghe thấy những lời nói dịu dàng của cô, và tôi cảm nhận lại hương vị của những quả táo đó.
And then one day, just like that, the nightmare is over. The war has ended. Those of us who are still alive are free.
Và đến một ngày kia, cơn ác mộng đột nhiên chấm dứt. Chiến tranh kết thúc. Chúng tôi, những kẻ sống sót, được trả tự do.
I have lost everything that was precious to me, including my family. But I still have the memory of this girl, a memory I carry in my heart, and gives me the will to go on as I move to America to start a new life.
Tôi đã mất tất cả những gì quý giá, trong đó có gia đình mình. Nhưng tôi vẫn còn những kỷ niệm về cô gái, kỷ niệm mà tôi cất giữ trong tim và chính những ký ức đó đã mang lại cho tôi nghị lực sống khi tôi di cư sang Mỹ để bắt đầu một cuộc sống mới.
Years pass. It is 1957. I am living in New York City. A friend convinces me to go on a blind date with a lady friend of his. Reluctantly, I agree.
Thời gian trôi qua, vào năm 1957, lúc đó tôi đang sống ở thành phố New York, một người bạn thuyết phục tôi đi gặp gỡ một cô gái là bạn của anh ta. Tôi miễn cưỡng nhận lời.
But she is nice, this woman named Roma. And like me, she is an immigrant, so we have at least that in common.
Cô gái ấy thật dễ thương, cô tên Roma. Và cũng như tôi, cô là dân nhập cư. Ít ra thì chúng tôi cũng có điểm chung.
“Where were you during the war?” Roma asks me gently, in that delicate way immigrants ask one another questions about those years.
“Trong thời kỳ chiến tranh nổ ra, anh đã ở đâu?” – Roma nhẹ nhàng hỏi tôi, bằng cách nói thật tế nhị mà những người nhập cư thường dùng để hỏi nhau về những năm tháng đó.
“I was in a concentration camp in Germany,” I reply.
Tôi đáp: “Anh sống trong một trại tập trung ở Đức.”
Roma gets a faraway look in her eyes as if she remembering something painful yet sweet.
Trong mắt Roma hiện lên một cái nhìn xa xăm, như thể cô đang nhớ về một điều gì vừa đau đớn vừa ngọt ngào.
“What is it?” I ask.
“Gì thế em?” – Tôi hỏi.
“I am just thinking about something from my past, Herman,” Roma explains in a voice suddenly very soft. “You see, when I was a young girl, I lived near a concentration camp. There was a boy there, a prisoner, and for a long while, I used to visit him every day. I remember I used to bring him apples. I would throw the apple over the fence, and he would be so happy.”
“Em đang nghĩ về một việc xảy ra trong quá khứ, Herman à.” – Roman giải thích, giọng nhỏ hẳn đi – “Anh biết không, khi em còn nhỏ, em sống gần một trại tập trung. Có một cậu bé là tù nhân bị nhốt ở đấy; và trong một khoảng thời gian dài, em đã đến thăm cậu ấy hằng ngày. Em còn nhớ em đã mang táo đến cho cậu ấy. Em ném táo qua hàng rào và cậu ấy rất vui.”
Roma sighs heavily and continues. “It is hard to describe how we felt about each other – after all, we were very young, and we only exchanged a few words when we could – but I can tell you, there was much love there. I assume he was killed like so many others. But I cannot bear to think that, and so I try to remember him as he was for those months we were given together.”
Roma thở dài và nói tiếp: “Thật khó diễn tả những cảm xúc chúng em đã dành cho nhau – dù sao đi nữa, lúc ấy chúng em cũng còn quá nhỏ và chúng em chỉ nói với nhau vài ba tiếng khi có thể – nhưng em có thể khẳng định với anh là chúng em đã rất thương yêu nhau. Em nghĩ cậu ấy đã bị giết như nhiều người khác. Nhưng em không chịu nỗi ý nghĩ ấy và em cố nhớ về cậu ấy như trong những tháng ngày mà chúng em đã gặp nhau.”
With my heart pounding so loudly I think it will explode, I look directly at Roma and ask, “And did that boy say to you one day, “Do not bring me an apple tomorrow. I am being sent to another camp.”
Tim tôi đập mạnh tưởng sắp vỡ đến nơi. Tôi nhìn thẳng vào Roma và hỏi: “Và có phải một ngày kia cậu bé đã nói với em: “Ngày mai đừng mai táo đến cho mình nữa. Mình sắp bị đưa đến một trại khác”, đúng không nào?”
“Why, yes,” Roma responds, her voice trembling. “But, Herman, how on earth could you possibly know that?”
“Ơ, đúng thế.” – Roma đáp, giọng run run – “Nhưng Herman, làm sao mà anh biết được?”
I take her hands in mine and answer, “Because I was that young boy, Roma.”
Tôi nắm lấy tay nàng và nói: “Bởi vì anh chính là cậu bé đó, Roma à”.
For many moments, there is only silence. We cannot take our eyes from each other, and as the veils of time lift, we recognize the dear friend we once loved so much, whom we have never stopped loving, whom we have never stopped remembering.
Chúng tôi im lặng một lúc lâu, chẳng thể nào rời mắt khỏi nhau. Và khi bức màn thời gian được vén lên, chúng tôi nhận ra nhau, nhận ra người mà chúng tôi đã hết mực yêu thương, người mà chúng tôi đã không ngừng yêu thương và không ngừng nhung nhớ.
Finally, I speak: “Roma, I was separated from you once, and I don’t ever want to be separated from you again. Now, I am free, and I want to be together with you forever. Dear, will you marry me?”
Sau cùng, tôi nói: “Roma, anh đã phải lìa xa em một lần rồi và anh không bao giờ muốn xa em nữa. Giờ thì anh tự do và anh muốn ở bên cạnh em mãi mãi. Em có đồng ý lấy anh không?”
I see that same twinkle in her eye as Roma says, “Yes, I will marry you,” and we embrace, the embrace we longed to share for so many months, but barbed wire came between us.
Tôi lại nhìn thấy ánh mắt long lanh của Roma khi nàng nói: “Vâng, em đồng ý”. Rồi chúng tôi ôm lấy nhau, cái ôm mà chúng tôi khao khát chia sẻ trong nhiều tháng trời nhưng lúc ấy hàng rào kẽm gai đã ngăn cách chúng tôi.
Now, nothing ever will again…
Giờ đây, không còn gì có thể chia cách hai chúng tôi được nữa…